Việt Nam hướng tới Net Zero, nâng cao cơ hội đầu tư trong tương lai
Việt Nam đầu tư 233 tỷ USD thích ứng khí hậu, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng xanh tới NetZero vào năm 2050.

Việt Nam tăng tốc tăng trưởng xanh, đặt mục tiêu Net Zero
Việt Nam đang chuyển mình với chiến lược tăng trưởng xanh, hướng tới trở thành quốc gia thu nhập cao vào 2045 và đạt phát thải ròng bằng không (Net Zero) vào 2050. Để thực hiện, đất nước tập trung vào ba trụ cột: thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải nhà kính, và phát triển kinh tế biển bền vững. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), giai đoạn 2025-2050, Việt Nam cần 233 tỷ USD, tương đương 0,75% GDP mỗi năm, để đầu tư vào nông nghiệp thông minh, hạ tầng giao thông chống chịu và bảo vệ người lao động.
Biến đổi khí hậu tác động mạnh với 3.260 km bờ biển và vùng đất thấp. Bão, lũ, xâm nhập mặn đe dọa nông nghiệp, công nghiệp và sinh kế. Nếu không hành động, GDP có thể giảm 9,1% vào 2035 và 12,5% USD vào năm 2050. Tuy nhiên, các biện pháp như tưới ướt khô xen kẽ (AWD), xây hạ tầng chống ngập, và cải thiện nhà ở có thể giảm 5,8% USD tổn thất GDP. Chính phủ đang lồng ghép rủi ro khí hậu vào kế hoạch đầu tư công, triển khai bảo hiểm rủi ro và hệ thống cảnh báo sớm từ 2026.
Giảm phát thải đòi hỏi tách tăng trưởng kinh tế khỏi phát thải. Quy hoạch Điện 8 tăng mục tiêu điện mặt trời lên 73 GW và điện gió 38 GW vào 2030. Hệ thống giao dịch phát thải (ETS) thí điểm từ 2025 cho ngành điện, xi măng, thép, cùng cam kết giảm 30% mê-tan nông nghiệp. Kinh tế biển, với Nghị quyết 36, hướng tới xây dựng vùng ven biển thành trung tâm kinh tế-sinh thái, nhưng cần cải thiện quản trị và đầu tư công nghệ sạch.
Chính sách hỗ trợ bao gồm tín dụng xanh, định giá các-bon, và chương trình “khoản mua xanh” (mua sắm công ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường). Khu vực tư nhân đóng vai trò then chốt, nhưng cần vượt qua rào cản về thông tin khí hậu, tài chính và công nghệ.
Phân tích tác động kinh tế và cơ hội đầu tư xanh
Biến đổi khí hậu đe dọa tăng trưởng dài hạn. So với năm 2010, khi thiệt hại kinh tế từ thiên tai chiếm 1% GDP, con số này có thể tăng lên 1,5% vào 2030 nếu không hành động. Nông nghiệp, đóng góp 12% GDP, chịu ảnh hưởng nặng, với 30% diện tích lúa bị xâm nhập mặn tại ĐBSCL. Công nghiệp và chuỗi cung ứng cũng tổn thất 7-10% do gián đoạn hạ tầng, như cảng biển và đường giao thông.
Đầu tư 233 tỷ USD vào thích ứng khí hậu, tương đương 9,3 tỷ USD/năm, là thách thức lớn. Trong giai đoạn 2015-2020, Việt Nam chỉ chi 0,5% GDP cho thích ứng, thấp hơn 0,8% của Thái Lan. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư cao: mỗi 1 USD chi cho hạ tầng chống ngập tiết kiệm 4 USD thiệt hại kinh tế. Các giải pháp như AWD đã tăng năng suất lúa 10% tại An Giang, cần nhân rộng với hỗ trợ tín dụng ưu đãi 5-6%/năm.
Giảm phát thải yêu cầu chuyển đổi năng lượng. Năm 2024, điện than chiếm 45% sản lượng, nhưng Quy hoạch Điện 8 giảm tỷ lệ này xuống 20% vào 2030. Điện mặt trời và gió tăng mạnh, nhưng chi phí lưu trữ năng lượng (battery storage) cao, chiếm 15-20% tổng vốn đầu tư. ETS và định giá các-bon sẽ tăng chi phí sản xuất thép, xi măng 5-7%, nhưng tạo cơ hội cho doanh nghiệp công nghệ sạch, như sản xuất hydro xanh, dự kiến tăng trưởng 25% đến 2030.
Kinh tế biển đóng góp 10% GDP, nhưng khai thác quá mức và ô nhiễm làm giảm 15% sản lượng thủy sản từ 2015-2024. Nghị quyết 36 thúc đẩy nuôi trồng thủy sản sạch, nhưng chỉ 20% doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới do thiếu vốn. Tín dụng xanh và chứng nhận bền vững (2 năm/lần) sẽ tăng 10-12% giá trị xuất khẩu thủy sản, đặc biệt sang EU.
Khu vực tư nhân cần hỗ trợ thể chế. Năm 2024, chỉ 30% doanh nghiệp nhỏ tiếp cận được tín dụng xanh, do thiếu tiêu chí đánh giá và quy trình phức tạp. Chính sách “khoản mua xanh” và chia sẻ rủi ro sẽ giảm 10-15% chi phí ban đầu cho doanh nghiệp công nghệ sạch, thu hút đầu tư tư nhân tăng 20% vào 2030.

Dự báo thị trường và khuyến nghị nhà đầu tư
Tại 60s Hôm Nay, chúng tôi dự báo thị trường năng lượng sạch Việt Nam đạt 15 tỷ USD vào 2030, với cổ phiếu ngành năng lượng tái tạo (REE, GEG) và thủy sản (VHC, ANV) tăng 10-15%. Bất động sản ven biển tại Đà Nẵng, Phú Quốc sẽ tăng giá 7-10%, nhờ quy hoạch kinh tế biển bền vững. Trái phiếu xanh chính phủ, dự kiến phát hành 100.000 tỷ đồng năm 2026, sẽ thu hút vốn ngoại. Tuy nhiên, nếu lạm phát vượt 4%, chi phí đầu tư xanh có thể tăng 5%, làm chậm tiến độ Net Zero.
Nhà đầu tư nên phân bổ 20% danh mục vào REE và VHC, chờ giá điều chỉnh 10% để giải ngân, kỳ vọng lợi nhuận 12% trong 12 tháng. Doanh nghiệp năng lượng cần hợp tác quốc tế, giảm chi phí công nghệ 5-7%. Công ty thủy sản nên đầu tư công nghệ sạch, tăng 15% xuất khẩu sang EU. Ngân hàng cần mở gói tín dụng xanh lãi suất 5%, hạn mức tăng 10%, cho dự án điện gió và nông nghiệp thông minh.
Rủi ro nằm ở khung pháp lý chậm hoàn thiện. Nếu ETS không triển khai đúng hạn, doanh nghiệp thép, xi măng có thể lỗ 3-5%. Nhà đầu tư nên theo dõi báo cáo đầu tư xanh WB tháng 9/2025; nếu vốn giải ngân dưới 70%, chuyển 10% danh mục sang vàng. Chính phủ cần ban hành tiêu chí tín dụng xanh trước quý III/2026, tăng giải ngân 20%. Doanh nghiệp cần đào tạo nhân sự ESG (môi trường, xã hội, quản trị), giảm rủi ro từ chối vay 15%.
Phương Thảo
Nguồn tham khảo: Thời báo Ngân hàng