23/06/2025 lúc 15:46

Nông sản 23/6: Cà phê lao dốc xuống dưới 100.000 đồng/kg, thịt lợn giảm nhẹ

Ngày 23/6, cà phê trong nước giảm mạnh về dưới 100.000 đồng/kg, gạo ổn định, hồ tiêu tiếp tục rớt giá, trong khi thịt lợn miền Trung và miền Nam giảm nhẹ.

Cà phê giảm giá sốc do nguồn cung dồi dào

Nông sản 23/6: Cà phê lao dốc xuống dưới 100.000 đồng/kg, thịt lợn giảm nhẹ
Nông sản 23/6: Cà phê lao dốc xuống dưới 100.000 đồng/kg, thịt lợn giảm nhẹ

Giá cà phê trong nước ngày 23/6 tiếp tục lao dốc, chạm mức thấp nhất trong nhiều tháng. Tại Tây Nguyên, giá dao động từ 95.500–96.000 đồng/kg, giảm mạnh so với tuần trước. Cụ thể, Lâm Đồng (Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc) ghi nhận 95.500 đồng/kg; Đắk Lắk (Cư M’gar, Ea H’leo, Buôn Hồ) và Đắk Nông đạt 96.000 đồng/kg; Gia Lai (Chư Prông, Pleiku, La Grai) ở mức 95.900–96.000 đồng/kg; Kon Tum là 95.900 đồng/kg.

Trên thị trường quốc tế, cà phê Robusta chịu áp lực nặng nề. Hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2025 trên sàn London giảm 27,6% (1.482 USD/tấn), còn 3.887 USD/tấn; kỳ hạn tháng 9 giảm 29,7% (1.579 USD/tấn), chỉ đạt 3.737 USD/tấn. Theo Cục Xuất nhập khẩu, nguồn cung dồi dào từ Brazil, Indonesia, và triển vọng vụ mùa tốt tại Việt Nam là nguyên nhân chính.

Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo sản lượng cà phê Robusta Việt Nam niên vụ 2025-2026 tăng 7%, đạt 31 triệu bao, cao nhất 4 năm. Brazil tăng 0,5% lên 65 triệu bao, Honduras tăng 5,1% lên 5,8 triệu bao, và Indonesia đạt 11,25 triệu bao, tăng 5,14%. Nguồn cung dư thừa khiến giá cà phê khó phục hồi, gây khó khăn cho nông dân.

Gạo ổn định với biến động nhẹ

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, giá gạo và lúa ngày 23/6 giữ ổn định, với một số loại tăng nhẹ. Gạo nguyên liệu CL 555 đạt 8.400–8.500 đồng/kg, IR 504 từ 7.800–9.000 đồng/kg, đều tăng 100 đồng/kg. Phụ phẩm như tấm OM 5451 (7.500–7.600 đồng/kg) và cám (7.650–7.850 đồng/kg) không đổi.

Theo Sở Nông nghiệp An Giang, lúa IR 50404 tăng 100 đồng/kg lên 5.400–5.600 đồng/kg. Các loại khác như Đài Thơm 8, OM 18 (6.800 đồng/kg), Nàng Hoa 9 (6.650–6.750 đồng/kg), OM 5451 (6.000–6.200 đồng/kg) ổn định. Tại chợ lẻ, gạo thường tăng 500 đồng/kg lên 14.500–15.000 đồng/kg; các loại đặc sản như Nàng Nhen (28.000 đồng/kg), Nếp ruột (21.000–22.000 đồng/kg) giữ giá.

Xuất khẩu gạo Việt Nam giảm nhẹ, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam: gạo 5% tấm còn 396 USD/tấn (giảm 1 USD), 25% tấm và 100% tấm giảm 2 USD, lần lượt đạt 366 USD/tấn và 323 USD/tấn. Gạo Thái Lan (401 USD/tấn), Ấn Độ (382 USD/tấn), và Pakistan (392 USD/tấn) cũng biến động nhẹ, cho thấy cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế.

Hồ tiêu rớt giá mạnh nhất trong tháng

Giá hồ tiêu trong nước ngày 23/6 tiếp tục giảm mạnh, xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 5/2024, dao động 123.000–125.000 đồng/kg, giảm 12.000–14.000 đồng/kg so với tuần trước. Đắk Lắk và Đắk Nông đạt 125.000 đồng/kg; Gia Lai, Bà Rịa–Vũng Tàu, Đồng Nai, và Bình Phước cùng mức 123.000 đồng/kg.

Trên thị trường thế giới, giá tiêu đen xuất khẩu cũng lao dốc. Theo Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế, tiêu đen Indonesia giảm 39 USD/tấn, còn 7.461 USD/tấn; Brazil giảm 125 USD/tấn, đạt 6.050 USD/tấn; Malaysia giảm 100 USD/tấn, còn 9.000 USD/tấn. Tiêu đen Việt Nam giảm mạnh 300 USD/tấn, chỉ còn 6.000–6.100 USD/tấn cho loại 500 g/l và 550 g/l, phản ánh nguồn cung dư thừa và nhu cầu yếu.

Cao su biến động trái chiều

Nông sản 23/6: Cà phê lao dốc xuống dưới 100.000 đồng/kg, thịt lợn giảm nhẹ
Nông sản 23/6: Cà phê lao dốc xuống dưới 100.000 đồng/kg, thịt lợn giảm nhẹ

Giá cao su nội địa ổn định, với một số khu vực giảm nhẹ. Tại Công ty Mang Yang, mủ nước đạt 397–401 đồng/USD, mủ đông tạp 359–409 đồng/DRC. Công ty Cao su Bà Rịa ghi nhận mủ nước 405 đồng/USD, mủ đông DRC 35–44% đạt 13.500 đồng/kg, mủ nguyên liệu 17.200–18.500 đồng/kg. Công ty Phú Riềng báo giá mủ tạp 390 đồng/DRC, mủ nước 425 đồng/USD.

Trên thị trường thế giới, giá cao su biến động mạnh: giảm 4,2% tại Nhật Bản, tăng 1,5% tại Trung Quốc, và gần như đi ngang tại Thái Lan. Nam Phi áp thuế chống bán phá giá tạm thời lên lốp xe nhập từ Việt Nam, Thái Lan, và Campuchia trong 6 tháng, do nghi ngờ lách thuế từ Trung Quốc, gây áp lực cho ngành xuất khẩu.

Thịt lợn giảm nhẹ ở miền Trung, miền Nam

Giá lợn hơi ngày 22/6 tại miền Bắc ổn định, dao động 68.000–69.000 đồng/kg, với Hưng Yên và Tuyên Quang dẫn đầu. Miền Trung–Tây Nguyên giảm 1.000 đồng/kg: Đắk Lắk đạt 69.000 đồng/kg, Bình Định và Khánh Hòa còn 68.000 đồng/kg, khung giá 67.000–73.000 đồng/kg. Miền Nam cũng giảm nhẹ, với Cần Thơ 72.000 đồng/kg, Tiền Giang 71.000 đồng/kg, khung giá 70.000–73.000 đồng/kg.

Giá thịt lợn mát Meat Deli tại WinMart giữ ổn định, từ 119.922–163.122 đồng/kg, với ưu đãi 20% cho hội viên. Ba rọi đạt 163.122 đồng/kg, nạc dăm 157.520 đồng/kg, chân giò rút xương 127.922 đồng/kg. Nguồn cung dồi dào và nhu cầu yếu khiến giá lợn hơi giảm, buộc người chăn nuôi điều chỉnh quy mô đàn.

Thị trường nông sản ngày 23/6 chứng kiến biến động mạnh, với cà phê và hồ tiêu giảm sâu do nguồn cung dư thừa. Gạo ổn định nhưng xuất khẩu giảm nhẹ, cao su chịu áp lực thuế xuất khẩu, và thịt lợn giảm ở miền Trung, miền Nam. Nông dân cần theo dõi sát thị trường, phối hợp với hiệp hội để điều chỉnh sản xuất. Doanh nghiệp xuất khẩu nên tận dụng FTA, tập trung vào sản phẩm chất lượng cao để vượt qua khó khăn.

Thùy Linh

Nguồn tham khảo: Tạp chí Thương gia