21/05/2025 lúc 14:22

Giá nông sản 21/5: Cà phê Tây Nguyên tăng vọt 2.000 đồng/kg

Giá cà phê tại Tây Nguyên bất ngờ tăng mạnh 2.000 đồng/kg, đạt 126.500 đồng/kg, trong khi giá lợn hơi và gạo giữ xu hướng ổn định.

Cà phê Tây Nguyên đón sóng phục hồi

Cà phê Tây Nguyên đóng sóng phục hồi. Ảnh: Sưu tầm
Cà phê Tây Nguyên đón sóng phục hồi. Ảnh: Sưu tầm

Sáng 21/5/2025, thị trường cà phê tại Tây Nguyên chứng kiến sự bứt phá đáng kể, với giá tăng 2.000-2.200 đồng/kg, đạt mức trung bình 126.500 đồng/kg sau chuỗi phiên giảm trước đó. Đắk Nông dẫn đầu với giá 126.700 đồng/kg, theo sát là Đắk Lắk và Gia Lai (126.500 đồng/kg), trong khi Lâm Đồng đạt 126.000 đồng/kg. Mức tăng này mang lại tín hiệu tích cực cho nông dân, phản ánh sự phục hồi của thị trường nội địa.

Trên sàn quốc tế, giá cà phê Robusta tại London giảm nhẹ 63-70 USD/tấn, dao động 4.767-4.997 USD/tấn, trong khi Arabica tại New York cũng giảm 4-5,40 cent/lb, đạt 354,50-379,25 cent/lb. Tuy nhiên, cà phê Arabica Brazil lại tăng mạnh, dao động 439,05-484,55 USD/tấn, hứa hẹn triển vọng cho vụ mùa mới.

Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê Việt Nam tháng 4/2025 đạt 166.606 tấn, giảm 8% về lượng và 9,2% về kim ngạch so với tháng trước, với giá trung bình 5.797 USD/tấn. Dù vậy, tín hiệu phục hồi giá trong nước cho thấy tiềm năng cạnh tranh mạnh mẽ của cà phê Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long ổn định

Lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long ổn định. Ảnh: Sưu tầm
Lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long ổn định. Ảnh: Sưu tầm

Thị trường lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long ngày 21/5 ghi nhận sự ổn định, với một số loại lúa tươi tăng nhẹ 200 đồng/kg. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, gạo nguyên liệu IR 504 đạt 8.250-8.350 đồng/kg, CL 555 8.600-8.900 đồng/kg, OM 380 8.000-8.100 đồng/kg, trong khi OM 18 và 5451 lần lượt đạt 10.200-10.400 đồng/kg và 9.600-9.750 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM 380 và IR 504 dao động 8.800-9.700 đồng/kg.

Tại các chợ lẻ, giá gạo giữ nguyên so với hôm trước. Gạo Nàng Nhen dẫn đầu với 28.000 đồng/kg, gạo thường 13.000-15.000 đồng/kg, còn gạo thơm như Jasmine, Hương Lài, hay gạo Nhật dao động 16.000-22.000 đồng/kg. Sự ổn định này giúp người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận các sản phẩm chất lượng.

Về xuất khẩu, giá gạo Việt Nam đi ngang với gạo 5% tấm đạt 397 USD/tấn, 25% tấm 368 USD/tấn, và 100% tấm 321 USD/tấn. Trong 4 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 3,4 triệu tấn gạo, đạt 1,76 tỷ USD, tăng 8,1% về lượng nhưng giảm 13,3% giá trị do giá bình quân giảm 20% xuống 517 USD/tấn, theo Bộ Nông nghiệp và Công Thương.

Thịt lợn và hồ tiêu có xu hướng tích cực

Giá lợn hơi ngày 21/5 giữ ổn định ở miền Bắc, với Bắc Giang đạt 69.000 đồng/kg, dao động 67.000-69.000 đồng/kg. Miền Trung – Tây Nguyên ghi nhận tăng 1.000 đồng/kg tại Đắk Lắk và Bình Thuận, đạt 72.000 đồng/kg, ngang với Lâm Đồng và Ninh Thuận. Miền Nam tăng nhẹ tại Long An (74.000 đồng/kg), nhưng mức 75.000 đồng/kg đã biến mất, với giá dao động 73.000-74.000 đồng/kg.

Giá hồ tiêu trong nước giảm nhẹ tại Gia Lai, xuống 150.000 đồng/kg, trong khi Đắk Lắk, Đắk Nông giữ ở 153.000 đồng/kg, và các tỉnh Đông Nam Bộ như Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Phước ổn định ở 151.000 đồng/kg. Trên thị trường thế giới, giá tiêu Indonesia tăng 14-20 USD/tấn, với tiêu đen Lampung đạt 7.252 USD/tấn và tiêu trắng Muntok 9.983 USD/tấn, trong khi tiêu Việt Nam ổn định ở 6.700-9.700 USD/tấn.

Giá thịt lợn mát Meat Deli tại WinMart không đổi, dao động 119.922-163.122 đồng/kg, với ưu đãi 20% cho hội viên. Thịt heo xay, nạc đùi, nạc vai lần lượt ở mức 119.922-126.320 đồng/kg, chân giò rút xương 127.922 đồng/kg, và nạc dăm 157.520 đồng/kg. Xu hướng tăng nhẹ ở một số khu vực cho thấy thị trường đang dần phục hồi.

Cao su duy trì ổn định

Giá mủ cao su trong nước ngày 21/5 tiếp tục ổn định. Công ty Cao su Bà Rịa thu mua mủ nước mức 1 ở 452 đồng/độ TSC/kg, mủ chén và mủ đông đạt 13.500-18.000 đồng/kg tùy độ DRC. Công ty Cao su Mang Yang và Phú Riềng niêm yết mủ nước 415-440 đồng/TSC/kg, mủ tạp 378-430 đồng/DRC/kg.

Trên thị trường quốc tế, giá cao su tại Thượng Hải tăng nhẹ 0,2% lên 14.505 nhân dân tệ/tấn, và tại Nhật Bản (OSE) tăng 0,2% lên 308,2 yên/kg. Tuy nhiên, sàn SGX Singapore ghi nhận giá giảm nhẹ 0,20-0,40 cent/kg, dao động 169,40-172,10 cent/kg. Tại Thái Lan, giá cao su nội địa giảm mạnh về 55-58 Baht/kg, mất 10-20% so với mức đỉnh 68 Baht/kg cuối tháng 3.

Dù thị trường toàn cầu biến động, giá cao su Việt Nam giữ vững, tạo điều kiện cho nông dân và doanh nghiệp duy trì sản xuất. Với nhu cầu cao su tự nhiên tăng, ngành cao su Việt Nam đang đứng trước cơ hội củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thùy Linh
Nguồn tham khảo: Tạp chí Thương gia